Diễn đàn làm Đẹp U lá nuôi thời kỳ thai nghén là một nhóm các rối loạn tân sản xuất phát từ mô lá nuôi nhau thai sau một quá trình thụ thai bất thường, gồm 4 loạt chính: chửa trứng thời kỳ thai nghén (bao gồm chửa trứng một phần và toàn phần), chửa trứng xâm lấn, UNG THƯ nhau thai và các khối u xuất phát từ nhau thai… Chửa trứng là bệnh thường gặp nhất trong các u lá nuôi thời kỳ thai nghén, về cơ bản, đây là tình trạng lành tính với khả năng thay đổi chuyển dạng ác tính. Hầu hết chửa trứng được điều trị khỏi bằng nạo hút. Tuy vậy, có khoảng 10-20% sẽ chuyển dạng ác tính. Trong số các trường hợp chuyển dạng này, khoảng 2/3 sẽ trở thành bệnh lá nuôi thai nghén không di căn và 1/3 còn lại là bệnh di căn (UNG THƯ nhau thai hay choriocarcinoma). Tuy vậy, chỉ có 50% u lá nuôi thời kỳ thai nghén ác tính xảy ra sau chửa trứng, 25% sau khi có thai thường và 25% còn lại là sau chửa ngoài tử cung và nạo phá thai. Nguồn: luonkhoemanh.com/u-nguyen-bao-nuoi/ Theo ghi nhận UNG THƯ Hà Nội 2004, tỷ lệ mắc UNG THƯ nhau thai ở phụ nữ là 3,1/100.000 dân. Tỷ lệ mắc u lá nuôi thời kỳ thai nghén khoảng 1/120 phụ nữ mang thai ở châu Á và khu vực nam Mỹ, trong khi đó tỷ lệ này là 1/1200 ở Hoa Kỳ. Tính trung bình, chửa trứng chiếm tỷ lệ 1/500 phụ nữ có thai. Chửa trứng xâm lấn chiếm khoảng 20% trong số các trường hợp chửa trứng, u lá nuôi có thể xuất hiện sau sinh, sau xảy thai hoặc trong thời kỳ thai nghén. Phụ nữ từ 20-40 tuổi có nguy cơ mắc cao gầp 5 lần so với các lứa tuổi khác. Bệnh nhân có tiền sử chửa trứng thời kỳ thai ghén, điều kiện kinh tế khó khăn, nhóm máu A, trong chế độ ăn thiếu vitamin A đều có nguy cơ cao mắc u lá nuôi hơn phụ nữ bình thường. Hoá chất là phương pháp điều trị hiệu quả đối với tất cả các trường hợp UNG THƯ nhau thai, u lá nuôi thời kỳ thai nghén là bệnh có thể chữa khỏi được đặc biệt khi được chẩn đoán ở giai đoạn sớm. 2. CHẨN ĐOÁN 2.1. Chẩn đoán lâm sàng 97% chửa trứng thời kỳ thai nghén xuất hiện ở 3 tháng đầu. Sản phụ có thể thấy ra máu, dịch âm đạo thậm chí ra những khối như chùm nho. Hay nôn và buồn nôn, thậm chí có biểu hiện của nhiễm độc thai nghén (phù, tăng huyết áp, protein niệu). Thiếu máu có thể gặp ở trường hợp chảy máu kéo dài. Các trường hợp chửa trứng xâm nhập có thể gây tổn thương qua lớp cơ tử cung gây chảy máu vào trong ổ bụng. Khi ở giai đoạn muộn, bệnh nhân có thể có các triệu chứng của bệnh di căn: khó thở, đau tức hạ sườn phải, các triệu chứng tăng áp lực nội sọ… Ung thư nhau thai có tỷ lệ di căn cao (96%), trong đó chủ yếu tới phổi (80%) âm đạo (30%), hệ thống thần kinh trung ương (10%), dạ dày-ruột, gan và thận. Các dấu hiệu cường giáp như run tay, đổ mồ hôi, nhịp nhanh cũng có thể gặp. Khi thăm khám, tử cung to hơn 80 với tuổi thai, không nghe thấy tiếng tim thai. Có thể thấy nhân di căn đỏ thẫm ở âm đạo, sờ thấy u buồng trứng hai bên. 2.2. Chẩn đoán cận lâm sàng Siêu âm: siêu âm là phương pháp tin cậy và có độ nhạy cao để chẩn đoán thai trứng. Trên siêu âm không tìm thấy phần thân của thai nhí, có thể thấy hình ảnh “bão tuyết” kinh điển. Một số trường hợp thấy nang hoàng thể hai bên. Chụp X-quang phổi: khoảng 70-80% bệnh nhân UNG THƯ nhau thai di căn có tổn thương phổi. Có thể thấy các tổn thương phổi dạng nốt, thả bóng hoặc thể kê. Chụp CT hoặc MRI sọ não: có tới 97-100% bệnh nhân có tổn thương hệ thần kinh trung ương do choriocarcinoma có tổn thương phổi kèm theo nên việc chụp sọ não không nên coi là thường quy ở bệnh nhân không có triệu chứng thần kinh-tâm thần và X-quang phổi bình thường. Xét nghiệm β-HCG: sau nạo hút thai trứng nồng độ β-HCG trở về bình thường sau 8-10 tuần. Nếu nồng độ chất này hằng định hoặc tăng lên chứng tỏ bệnh còn tồn tại tại chỗ hoặc di căn (gặp trong 15% trường hợp chửa trứng toàn phần và 1% trường hợp chửa trứng bán phần). Các khối u xuất phát từ vị trí nhau thai có nồng độ β-HCG thấp, tuy nhiên cần xác định nồng độ lactogen để chẩn đoán xác định các khối u này. Xét nghiệm thai bằng nước tiểu không đủ để phát hiện u lá nuôi thời kỳ thai nghén mặc dù thỉnh thoảng được dùng để khẳng định xét nghiệm máu dương tính. Các xét nghiệm khác: công thức máu có thể thấy thiếu máu thiếu sắt. Xét nghiệm hormon tuyến giáp T3, T4 khi có các biểu hiện cường giáp trạng. Các xét nghiệm cần thiết khác bao gồm: chức năng gan thận, nhóm máu. 2.3. Chẩn đoán giai đoạn Chẩn đoán giai đoạn cần thiết dựa vào khai thác tiền sử và thăm khám lâm sàng kỹ lưỡng, định lượng HCG và các phương pháp chẩn đoán hình ảnh.